Ở quận 1 thành phố Hồ Chí Minh có một cây cầu bắc qua rạch Thị Nghè nối quận 4 với một cái chợ đầu mối trái cây, hoa quả được cất từ năm 1874 mang tên Chợ Cầu Ông Lãnh (chợ Cầu Muối). Mấy trăm năm qua, người Sài Gòn và khách thập phương ai ai cũng biết đó là công trình mang dấu ấn của Lãnh Binh Nguyễn Ngọc Thăng xây dựng nên. Năm 1885, học giả Trương Vĩnh Ký đã viết rằng: “Chiếc cầu gỗ do ông Lãnh binh ở gần đó cho bắc qua, chắc là ông Lãnh Binh Thăng này, chớ không phải ai khác”. Cách gọi Ông Lãnh thay vì Lãnh binh Thăng là để biểu thị lòng tôn kính với ông, một bậc tiền nhân, một anh hùng chống Pháp dưới triều Nguyễn cùng với anh hùng Trương Định, Thiên Hộ Dương, Nguyễn Tri Phương, Thủ Khoa Huân. Trong số 23 vị tướng của xứ dừa Bến Tre và các anh hùng danh nhân lịch sử từ triều Nguyễn đến 2010, có những tướng lĩnh, anh hùng làm rạng danh xứ dừa Bến Tre tiêu biểu như: Đại tướng Lê Văn Dũng, nữ tướng anh hùng Nguyễn Thị Định, Trung tướng Đồng Văn Cống, Tướng Bình Xuyên Dương Văn Dương, Tướng Hồ Việt Lắm. Trong số danh nhân, lịch sử ấy Lãnh Binh Nguyễn Ngọc Thăng được mọi người cho rằng: ông là vị tướng đầu tiên của xứ dừa Bến Tre.
Sinh thành can nghiệp binh đao
Lãnh Binh Thăng tên thật là Nguyễn Ngọc Thăng (1798-1866) là một võ tướng nhà Nguyễn, thuộc thế hệ tham gia chiến đấu chống Pháp đầu tiên của Bến Tre và Nam Kỳ lục tỉnh. Ông sinh hạ tại ấp Giồng Keo, làng Mỹ Thạnh, huyện Tân An, (nay là xã Mỹ Thạnh, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre) trong một gia đình nông dân, có ba anh em ông là anh lớn, từ miền Trung vào lập nghiệp đã lâu đời nên cuộc sống tương đối khá giả. Cha ông tên là Nguyễn Công, mẹ là bà Trần Thị Kiếm, gốc người Quảng Nam. Thuở nhỏ, ngoài việc chăm học chữ Hán, chữ Nho ông còn hăng say luyện tập võ nghệ. Đến khi đủ tài lực, ông đứng ra chiêu mộ dân để khai khẩn đất đai, lập đồn điền vùng Bảo Hựu (Bến Tre) ngày nay. Dưới thời vua Thiệu Trị, ông gia nhập quân đội triều đình, được thăng Cai cơ, đến năm Tự Đức nguyên niên (1848), ông được thăng chức Lãnh binh. Mờ sáng ngày 1 tháng 9 năm Mậu Ngọ (1858), năm Tự Đức thứ 11, quân Pháp nổ súng đánh vào thành Đà Nẵng. Sau 5 tháng giao tranh, quân Pháp vẫn bị cầm chân ở nơi đây. Với mong muốn đánh chiếm nhanh Đà Nẵng, rồi sẽ “giáng cho Huế một đòn quyết định”, để có thể làm chủ nước Đại Nam, nhưng ý đồ của Liên quân Pháp và Tây Ban Nha đã không thể thực hiện được vì vấp phải sự kháng cự rất dũng mãnh của quân đội triều Nguyễn. Tướng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp là Charles Rigault de Genouilly (gọi tắt là De Genouilly) buộc phải thay đổi kế hoạch, là rút đi hai phần ba số quân (tức 2.000 người) và 8 trong số 14 chiến thuyền ở mặt trận này để quay vào đánh chiếm Gia Định. Theo Thư ngày 29/1/1859 của viên tướng này gửi Bộ trưởng Hải quân Pháp ở Paris, thì “Sài Gòn nằm trên một con sông mà chiến thuyền của chúng ta dễ vào và hễ quân lên bộ thì đánh thành ngay, không phải lưng cõng, vai mang, băng đồng mệt nhọc. Sài Gòn lại là một vựa thóc, nhân dân và binh lính ở kinh thành Huế sống một phần nhờ gạo Sài Gòn. Đến tháng Ba thì thuyền chở thóc gạo, sẽ kéo buồm từ Sài Gòn ra Huế. Chúng tôi quyết chận thóc gạo đó lại...”
Do đó, De Genouilly mong muốn chiếm lĩnh Sài Gòn để có thể “vừa lập nghiệp, vừa phòng thủ”, “vừa hành binh, vừa lưu thông thương mại dễ dàng”. Ngoài việc cắt đứt con đường tiếp tế lương thực cho Huế như đã ghi trên, thực dân Pháp sẽ có thêm điều kiện thuận lợi để thực hiện ý đồ làm chủ lưu vực sông Mê Kông, và xa hơn nữa là phía Bắc. Ngày 10/2, đại bác Pháp bắn vào Vũng Tàu. Ngày 11/2, đoàn tàu chiến Pháp vào sông Cần Giờ. Sau đó, quân Pháp vừa đi vừa tháo gỡ những chướng ngại vật trên sông và triệt phá 12 đồn trại ở hai bên bờ, nên mãi tới chiều 15/2, quân Pháp mới đến được ụ Hữu Bình. Tại đây suốt một đêm đã diễn ra cuộc đấu pháo rất dữ dội.
Quân Nguyễn dùng thuyền nhỏ chở đầy thuốc súng và rơm khô, định dùng kế hoả công nhưng bị quân Pháp biết, sai người lén đốt trước. Sáng ngày 16 tháng 2, bảy tàu chiến Pháp dàn trận rồi ra sức bắn pháo cấp tập xông lên chiếm được pháo đài và tiến đến sát thành Gia Định. Sáng sớm ngày 17/2, tướng De Genouilly cho đại bác trên tất cả các tàu chiến bắn yểm hộ rồi cho một cánh quân đổ bộ. Đội quân ấy đi theo con đường mà sau này (1865), Pháp đặt tên là đường Citadelle rồi dùng chất nổ phá thành. Pháo trên thành bắn xuống tàu đối phương nhưng không mấy hiệu quả. Và khi đánh thủng được cửa Đông, quân Pháp dùng thang cao leo vào thành, thì đôi bên liền xông vào đánh xáp lá cà. Đến khoảng 10 giờ trưa, Hộ đốc Võ Duy Ninh, đang giữ trọng trách trấn thủ thành, ra lệnh lui quân, bỏ lại hầu hết súng đạn, thóc gạo và hơn trăm chiến thuyền gỗ trên sông Thị Nghè. Chạy đến thôn Phước Lý (thuộc tổng Phước Lộc, huyện Tân Bình xưa) Hộ đốc Võ Duy Ninh và Án sát Lê Từ tự vẫn, còn Đề đốc Trần Trí, Bố chánh Vũ Thực, Lãnh binh Tôn Thất Năng, nhờ sự yểm trợ của đạo quân ứng nghĩa do Lê Huy và Trần Thiệu Chính chỉ huy, nên mang quân chạy về được ụ Tây Thới. Trong thành Gia Định lúc này có hơn 2.000 quân với 200 đại bác bằng sắt, bằng đồng, một hải phòng hạm, 7 chiến thuyền, 25.000kg thuốc súng, tiền bạc trị giá tương đương 130.000 francs, thực phẩm đủ nuôi 8.000 quân trong một năm. Vào ngày 8/ 3/1859, tướng De Genouilly cho đặt mấy chục ổ thuốc nổ phá tung nhiều đoạn trường thành, đốt dinh thự kho tàng bên trong, đốt cả thóc lúa. Kể lại vụ việc này, sách Địa chí TP. Hồ Chí Minh tập I, có đoạn: “Kho thóc thành Gia Định cháy mãi hai năm mà khói còn nghi ngút. Hai mươi bốn tháng nắng mưa không làm tắt được đám cháy nào. Quân Pháp cũng cướp giật, đốt luôn nhiều phố xá thương mãi và thôn xóm dân cư”. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã ghi:
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuộm màu mây…”
Quân Pháp tuy đã hạ được thành Gia Định, nhưng phải đối phó với những đạo quân “ứng nghĩa” hoạt động sôi nổi ở khắp nơi, đêm ngày phục kích, đột kích, bao vây đối phương. Nhân dân cũng đã tự thiêu hủy nhà cửa, di tản hết, không đi lính cho Pháp và không hợp tác với Pháp. GS. Trần Văn Giàu nhận xét: “Lúc Pháp đến đánh, trong thành Gia Định chỉ có hơn một nghìn quân thủ thành, trong thành có đủ khí giới, lương thực cho mười ngàn quân đóng giữ trong một năm. Điều đó chứng tỏ rằng, triều đình thờ ơ với sự phòng vệ. mặc dầu năm sáu tháng nay Pháp đánh Đà Nẵng, và từ hơn tuần nay đối phương vào Cần Giờ liên tiếp”. Khi Pháp đánh vào thành Gia Định, Lãnh Binh Thăng đem binh từ Thủ Thiêm đến cứu viện, nhưng chưa kịp đến nơi thì thành Gia Định đã bị đối phương chiếm lấy, sau khi đôi bên giáp mặt đánh nhau rất ác liệt. Thành mất, Hộ đốc trấn giữ thành là Võ Duy Ninh và án sát Lê Từ tuẫn tiết. Nghe tin Gia Định thất thủ, triều đình Huế liền phái Thượng thư bộ Hộ Tôn Thất Hiệp mang 1500 quân vào đóng ở Biên Hòa, còn Lãnh Binh Thăng được lệnh vẫn đóng giữ vùng Chùa Cây Mai. Tại đây, ông cho củng cố đồn lũy, nhưng do vũ khí của Pháp quá mạnh nên chỉ sau một thời gian cầm cự, ông cũng phải bỏ đồn. Khi Pháp chiếm đồn Cây Mai, ông hạ lệnh rút quân ra ngoài. Đến tháng 7/1860, ông chỉ huy 2.000 quân đánh vào đồn lũy của giặc Pháp, trong đó có chùa Cây Mai (Vì Pháp biến chùa Cây Mai thành đồn binh kiên cố để chống lại nghĩa quân). Biết rõ quân Pháp mang giầy cao mặt láng, ông nảy ra sáng kiến cho nghĩa quân mang trái mù u rải dọc theo đường chúng đi ruồng bố, rồi nghi trang bằng lá khô. Vì không đề phòng, chúng đạp phải, trượt té. Quân ta phục sẵn trong những bụi rậm ở hai bên đường, xông ra chém giết rất nhiều tên.
Ngày 24/ 02/1860, ông cùng Nguyễn Tri Phương chỉ huy quân đồn điền (hay quân tuần phiên bên ngoài) tấn công quân Pháp tại đồn Chí Hòa. Sau lần giao chiến đó tướng giặc Charner nhận định: “Người An Nam liều chết dưới làn đạn đại liên và lưỡi lê quân ta…họ hất nhào các thang leo thành, giật lấy súng, phụt từng vòi lửa để kháng cự và bắn rất dữ dội bằng các loại súng thô sơ qua các phòng ngự”. Sau đó, Lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng và các toán nghĩa quân trung thành khác rút lui xuống vùng Bến Lức, Tân An, nơi tiếp giáp với Gia Định và Định Tường lập căn cứ kháng địch. Chiếm thành Gia Định và đồn Chí Hòa xong, giặc Pháp xua quân chiếm dần các tỉnh miền Đông Nam Kỳ lục tỉnh (bao gồm Đồng Nai, Gia Định và Định Tường). Trước hết, chúng đánh xuống Định Tường, vì đây là cửa ngõ lúa gạo của đồng bằng. Những ngày này giặc luôn bị quân của Lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng và quân của Lãnh binh Tôn Thất Tuấn chận đánh quyết liệt. Bourdais - tên trung tá chỉ huy đã đền nợ máu tại bờ sông Bảo Định cùng nhiều tên giặc Pháp.