Site banner

Hội đồng nhân dân tỉnh tiếp xúc cử tri sau kỳ họp lần thứ 7

Chiều ngày 18/7/2018, tại Nhà Văn hóa  Mỹ Thạnh.  Ông Lê Văn Hòa, Phó Giám đốc Công an tỉnh, đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh có buổi tiếp xúc cử tri, xã Mỹ Thạnh. Tham dự buổi tiếp xúc có đại biểu các ngành, đoàn thể huyện, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, các ngành, đoàn thể xã và 53 đại biểu cử tri. Buổi tiếp xúc, đại biểu nghe ông Lê Văn Hòa, báo cáo kết quả kỳ họp lần thứ 7, Hội đồng nhân dân tỉnh, khoá IX, nhiệm kỳ 2016-2021. Kỳ họp diễn ra trong ba ngày: 01 ngày họp Tổ đại biểu thảo luận tài liệu kỳ họp (ngày 20 tháng 6 năm 2018), 2 ngày họp toàn thể tại hội trường (ngày 05 và ngày 06 tháng 7 năm 2018).

Tham dự kỳ họp tại hội trường có: ông Nguyễn Việt Thắng, Chủ tịch Hội nghề cá Việt Nam, đại biểu Quốc hội khóa XIV đơn vị tỉnh Bến Tre; Ông Võ Thành Hạo, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh; ông Phan Văn Mãi, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy; ông Trần Ngọc Tam, Phó Bí thư Tỉnh ủy; ông Cao Văn Trọng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội đơn vị tỉnh Bến Tre; các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh; 49/55 đại biểu HĐND tỉnh; các thành viên UBND tỉnh; thủ trưởng các sở, ban ngành, đoàn thể tỉnh; đại diện Thường trực HĐND và đại diện cử tri các huyện, thành phố. Kỳ họp đã nghe Báo cáo của UBND tỉnh về tình hình thực hiện Nghị quyết HĐND tỉnh về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2018 và nhiệm vụ, giải pháp thực hiện 6 tháng cuối năm 2018; Báo cáo thẩm tra của các Ban HĐND tỉnh; Thông báo công tác mặt trận tham gia xây dựng chính quyền 6 tháng đầu năm 2018 của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh.

Phiên thảo luận có 21 lượt ý kiến, trong đó: 01 lượt đại biểu Quốc hội khóa XIV đơn vị tỉnh Bến Tre; 12 lượt đại biểu HĐND tỉnh; 08 ý kiến của các đại biểu sở, ngành.Các đại biểu tập trung thảo luận các vấn đề về: chuỗi giá trị con heo trên địa bàn huyện Mỏ Cày Nam; tầm quan trọng của xây dựng chuỗi giá trị dừa góp phần ổn định giá dừa trong điều kiện giá dừa giảm trong 6 tháng đầu năm 2018; chương trình xây dựng nông thôn mới; tiến độ giải ngân các dự án đầu tư công; thực trạng đánh bắt thủy sản xa bờ và các giải pháp nâng cao hiệu quả đánh bắt thủy sản xa bờ trên địa bàn tỉnh; tình trạng sạt lở, phương hướng, giải pháp phòng chống sạt lở bờ sông, bờ biển trên địa bàn tỉnh; vệ sinh an toàn thực phẩm, hướng tới sản xuất sạch, sản xuất hữu cơ; việc cấp thẻ bảo hiểm y tế cho nhân dân các xã bãi ngang còn nhiều sai sót; xuất khẩu lao động ở huyện Giồng Trôm và những vấn đề liên quan xuất khẩu lao động; đào tạo nguồn nhân lực cho cáchợp tác xã và cho phát triển du lịch; tình hình tệ nạn xã hội, khiếu nại, tố cáo đang diễn biến phức tạp, những cảnh báo và giải pháp; công tác thụ lý, giải quyết tin báo tố giác tội phạm còn chậm so với quy định, tỷ lệ giải quyết chưa cao; công tác cải cách hành chính-các giải pháp để nâng cao chỉ số PAR Index.v.v..

Phiên chất vấn tại hội trường có 04 câu hỏi của 04 đại biểu về các nội dung: Đại biểu Nguyễn Thanh Hậu, đơn vị huyện Ba Tri chất vấn Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về giải pháp khắc phục tình trạng nuôi tôm ngoài vùng quy hoạch; Đại biểu Nguyễn Văn Huỳnh, đơn vị huyện Châu Thành chất vấn UBND tỉnh về kết quả triển khai các dự án và giải ngân nguồn vốn 53.000 tỉ đồng đã thu hút từ các doanh nghiệp tại Hội nghị xúc tiến đầu tư năm 2017; Đại biểu Nguyễn Thị Thanh Thảo, đơn vị huyện Mỏ Cày Bắc chất vấn UBND tỉnh về công tác dạy nghề; Đại biểu Nguyễn Thị Bé Mười, đơn vị huyện Châu Thành chất vấn UBND tỉnh về tình trạng hát nhạc sống và giải pháp khắc phục. Kết quả phiên chất vấn và trả lời chất vấn, Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định không ban hành Nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn tại Kỳ họp mà ghi nhận các cam kết của người trả lời chất vấn để bổ sung giải pháp vào Nghị quyết về bổ sung nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng cuối năm 2018. Kỳ họp đã thông qua 30 nghị quyết sau:

1. Nghị quyết về bổ sung một số nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng cuối năm 2018.

2. Nghị quyết về điều chỉnh, bổ sung Kế hoạch đầu tư nguồn vốn ngân sách Nhà nước tỉnh Bến Tre năm 2018.

3. Nghị quyết về một số chính sách khuyến khích phát triển hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Bến Tre.

4. Nghị quyết về cơ chế hoạt động của Cụm Công nghiệp Long Phước, xã Giao Long - xã An Phước, huyện Châu Thành.

5. Nghị quyết về việc thông qua Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp Phú Thuận, huyện Bình Đại.

6. Nghị quyết về việc thông qua Đề án thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển Hợp tác xã tỉnh Bến Tre.

7. Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung Điều 1 Nghị quyết số 18/NQ-HĐND ngày 05 tháng 12 năm 2017 của Hội đồng nhân dân tỉnh về danh mục các dự án phải thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng trên địa bàn tỉnh Bến Tre trong năm 2018.

8. Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung Điều 1 Nghị quyết số 19/NQ-HĐND ngày 05 tháng 12 năm 2017 của Hội đồng nhân dân tỉnh về danh mục các dự án chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng trên địa bàn tỉnh Bến Tre trong năm 2018.

9. Nghị quyết về việc thông qua đồ án quy hoạch cấp nước nông thôn trên địa bàn tỉnh Bến Tre đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.

10. Nghị quyết về việc thông qua Đồ án điều chỉnh, bổ sung quy hoạch thủy lợi tỉnh Bến Tre đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.

11. Nghị quyết thông qua Chương trình phát triển thủy sản tỉnh Bến Tre giai đoạn 2018-2020 và giai đoạn 2021-2030.

12. Nghị quyết quy định mức hỗ trợ kinh phí đối với UBMTTQ Việt Nam cấp xã và Ban Công tác Mặt trận ấp, khu phố để thực hiện Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” trên địa bàn tỉnh Bến Tre.

13. Nghị quyết ban hành quy định phân cấp quản lý, sử sụng tài sản công tại cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc phạm vi quản lý của địa phương trên địa bàn tỉnh.

14. Nghị quyết quy định tỷ lệ phần trăm (%) trích để lại cho ngân sách xã nguồn thu từ đấu giá quyền sử dụng đất, giao đất có thu tiền sử dụng đất trên địa bàn xã để thực hiện nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Bến Tre.

15. Nghị quyết quy định việc quản lý và sử dụng kinh phí bảo đảm trật tự, an toàn giao thông trên địa bàn tỉnh Bến Tre.

16. Nghị quyết về việc thông qua Đề án đề nghị công nhận thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre là đô thị loại II.

17. Nghị quyết về việc thông qua phương án đề xuất Dự án xây dựng đô thị phía Nam và Khu đô thị Tây Bắc thành phố Bến Tre.

18. Nghị quyết về việc thông qua Kế hoạch phân bổ biên chế công chức trong các cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước; số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập; hợp đồng theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP và số lượng người làm việc trong các hội có tính chất đặc thù tỉnh Bến Tre năm 2018.

19. Nghị quyết về việc thông qua Đề án thành lập thị trấn Tiên Thuỷ thuộc huyện Châu Thành, thị trấn Tiệm Tôm thuộc huyện Ba Tri, thị trấn Phước Mỹ Trung thuộc huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre.

20. Nghị quyết về việc quy định nội dung chi, mức hỗ trợ cho cán bộ theo dõi, quản lý đối tượng cai nghiện ma túy bắt buộc tại cộng đồng; mức đóng góp và chế độ miễn, giảm cho đối tượng tham gia cai nghiện ma túy bắt buộc tại cộng đồng.

21. Nghị quyết quy định chế độ trợ cấp đặc thù đối với công chức, viên chức và người lao động làm việc tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Bến Tre.

22. Nghị quyết về việc quy định nội dung chi, mức chi thực hiện công tác quản lý nhà nước về thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh Bến Tre.

23. Nghị quyết thông qua Đề án tổ chức đưa nông dân đi nghiên cứu, học tập nước ngoài về phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2018 - 2020.

24. Nghị quyết kết quả giám sát về kết quả thực hiện kết luận và kiến nghị của Kiểm toán nhà nước trong quản lý ngân sách, tiền, tài sản nhà nước tỉnh Bến Tre năm 2015.

25. Nghị quyết kết quả giám sát việc thực hiện Đề án xây dựng hạ tầng cung cấp nước sạch phục vụ sản xuất và sinh hoạt giai đoạn 2016-2020.

26. Nghị quyết thành lập Đoàn giám sát tình hình thực hiện Nghị quyết số 07/2014/NQ-HĐND ngày 10 tháng 7 năm 2014 của HĐND tỉnh về kết quả giám sát việc quản lý đất công, đất bãi bồi ven sông, ven biển trên địa bàn tỉnh Bến Tre.

27. Nghị quyết thành lập Đoàn giám sát kết quả triển khai thực hiện Đề án phát triển đa dạng sinh kế, thoát nghèo bền vững tỉnh Bến Tre, giai đoạn 2016-2020.

28. Nghị quyết về Chương trình hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh năm 2019.

29. Nghị quyết về việc xác nhận kết quả miễn nhiệm chức danh Ủy viên Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre, nhiệm kỳ 2016 - 2021.

30. Nghị quyết về việc xác nhận kết quả bầu bổ sung chức danh Ủy viên Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre, nhiệm kỳ 2016 - 2021.

Về tình hình thực hiện Nghị quyết HĐND tỉnh về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2018 và nhiệm vụ, giải pháp tập trung thực hiện trong 6 tháng cuối năm 2018:

Năm 2018 được xác định là năm “tăng tốc” và là năm bản lề thực hiện Nghị quyết Đại hội X Đảng bộ tỉnh, với mục tiêu đề ra là tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7%, do đó ngay từ đầu năm, UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành, các cấp trong tỉnh quyết tâm, nỗ lực và tập trung tổ chức thực hiện những công việc, nhiệm vụ thuộc phạm vi quản lý, kết quả đạt được trong 6 tháng đầu năm cụ thể như sau: Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) ước đạt 6,85% so cùng kỳ; trong đó, khu vực nông lâm thủy sản (khu vực I) tăng 3,58%; khu vực công nghiệp - xây dựng (khu vực II) tăng 11,11%; khu vực dịch vụ (khu vực III) tăng 7,76%; Tổng kim ngạch xuất khẩu ước 459,30 triệu USD, đạt 47,84% NQ; Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước 7.419 tỷ đồng, đạt 43,52% NQ; Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn 1.840,13 tỷ đồng, đạt 51,12% dự toán Trung ương và đạt 49,73% dự toán địa phương; Tổng chi ngân sách địa phương 3.906,68 tỷ đồng, đạt 44,19% dự toán Trung ương và đạt 43,71% dự toán địa phương; Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 55% (NQ 56%). Tạo việc làm cho 12.054 lao động (2.872 nữ), đạt 66,96% NQ (NQ 18.000 lao động), xuất khẩu lao động 504 người, đạt 63% NQ (NQ 800 người); Đạt 27,82 giường bệnh/vạn dân (NQ 27,81 giường bệnh/vạn dân); 7,93 bác sĩ/vạn dân (NQ 8,46 bác sĩ/vạn dân); Tỷ lệ người dân tham gia BHYT toàn tỉnh đạt 91,31% dân số (NQ 91%); Tỷ lệ hộ dân sử dụng điện đạt 99,88% (NQ 99,9%); Tỷ lệ hộ dân nông thôn sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 96,5% (NQ 94%); trong đó, hộ sử dụng nước sạch đạt 56% (NQ 55%); Tỷ lệ điều tra, khám phá án hình sự đạt 87,02% (NQ từ 80% trở lên);Huấn luyện lực lượng thường trực đạt 93,7% (NQ đạt 98,5%). Tuyển quân năm 2018 đạt 100% chỉ tiêu (NQ đạt 100% chỉ tiêu).

Kết quả đạt được trên lĩnh vực kinh tế: Sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định. Giá trị tăng thêm khu vực I ước đạt 5.014 tỷ đồng, tăng 3,58% so cùng kỳ. Đến nay, đã có 4 chuỗi giá trị (dừa, bưởi, nhãn, chôm chôm) hình thành liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm; đặc biệt, sản phẩm “Bưởi Da xanh” và “Dừa Xiêm xanh” của tỉnh đã được công nhận chỉ dẫn địa lý “Bến Tre”, góp phần khẳng định giá trị, thương hiệu và nâng sức cạnh tranh trên thị trường. Các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi và nuôi thủy sản nhìn chung phát triển ổn định, với năng suất, chất lượng và hiệu quả có cải thiện khá so với cùng kỳ. Bên cạnh đó, tỉnh đã xúc tiến và tích cực phối hợp với Bộ, ngành Trung ương để tiến hành thực hiện các thủ tục xây dựng Trung tâm dừa Đồng Gò Bến Tre thành Trung tâm nghiên cứu và phát triển toàn diện ngành dừa mang tầm quốc gia; Công tác xây dựng nông thôn mới có chuyển biến tích cực: Các địa phương tập trung triển khai đầu tư hạ tầng từ nguồn kinh phí được phân bổ và đẩy mạnh phát triển sản xuất theo hướng xây dựng các mô hình liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Đặc biệt, trong 6 tháng đầu năm, tỉnh đã tổ chức công bố đạt chuẩn nông thôn mới 03 xã, nâng tổng số xã đạt chuẩn nông thôn mới trên toàn tỉnh là 24/147 xã. Đối với các xã đạt chuẩn theo Bộ tiêu chí giai đoạn 2011-2015, mặc dù, đã khắc phục, nâng chất và đạt được một số kết quả nhất định, nhưng so với Bộ tiêu chí mới thì kết quả vẫn chưa thật sự nổi bật, có một số chỉ tiêu sụt giảm, chưa đạt yêu cầu; Lĩnh vực sản xuất công nghiệp phát triển ổn định: Trong 6 tháng đầu năm, sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá, giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ước tăng 10,68% so cùng kỳ và đạt 41,3% kế hoạch. Để thu hút đầu tư và góp phần phát triển ổn định khu vực II, UBND tỉnh đã chỉ đạo tiếp tục triển khai hoàn thiện hạ tầng các khu, cụm công nghiệp; tỉnh đã thành lập mới cụm công nghiệp Tân Thành Bình (Mỏ Cày Bắc), nâng số cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh lên 10 cụm, với tỷ lệ lắp đầy khoảng 37,43%. Hiện nay, UBND tỉnh đã trình Bộ Xây dựng thẩm định hồ sơ thiết kế cơ sở kế hoạch công nghiệp Phú Thuận, sau đó UBND tỉnh sẽ phê duyệt dự án, xúc tiến việc đo đạc để xây dựng phương án bồi thường giải phóng mặt bằng; Lĩnh vực thương mại - dịch vụ tiếp tục tăng trưởng khá tốt: Hoạt động thương mại - dịch vụ phát triển ổn định, đa dạng hóa sản phẩm, loại hình, chất lượng dịch vụ được nâng lên, đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất và tiêu dùng xã hội. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tăng 12,59% so cùng kỳ. Hạ tầng thương mại tiếp tục được quan tâm đầu tư từ nhiều nguồn vốn; trong đó, Trung tâm Thương mại triển lãm và Hội nghị quốc tế - Việt Nam đã hoàn thành và đi vào hoạt động. Lĩnh vực du lịch có nhiều khởi sắc, lượng khách và doanh thu từ du lịch tăng cao so với cùng kỳ; 6 tháng đầu năm, tổng lượt khách du lịch tăng 26,84% so cùng kỳ và đạt 56,9% so kế hoạch. Cơ sở hạ tầng, cơ sở kinh doanh du lịch được quan tâm đầu tư, nâng cấp, mở rộng…; Hoạt động xúc tiến đầu tư được đẩy mạnh, trong 6 tháng đầu năm, có 55 đoàn đầu tư đến trao đổi, tìm hiểu đầu tư. Đối với đầu tư nước ngoài (FDI), tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh là 166,51 triệu USD, đạt 83,26% kế hoạch. Đối với đầu tư trong nước, tổng vốn đầu tư trong nước đăng ký cấp mới, điều chỉnh là 62,29% kế hoạch năm 2018. Huy động các nguồn lực đầu tư phát triển đạt khá. Ước tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong 6 tháng thực hiện khoảng 7.419 tỷ đồng, tăng 6,14% so cùng kỳ và đạt 43,52% kế hoạch; Hoạt động xuất khẩu được đẩy mạnh và kiểm soát khá tốt nhập khẩu: Công tác xúc tiến thương mại và hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm, mở rộng thị trường được thực hiện khá tốt thông qua nhiều hoạt động cụ thể, thiết thực; đồng thời, quan tâm giải quyết khó khăn, vướng mắc để hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu, nhất là đối với các mặt hàng chủ lực của tỉnh. Qua đó, góp phần đưa hoạt động xuất khẩu của tỉnh tiếp tục phát triển ổn định, kim ngạch xuất khẩu tăng 15,3% so cùng kỳ, đạt 47,8% kế hoạch, trong đó, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm từ dừa ước tăng 4,95% so cùng kỳ;  Hoạt động quản lý, điều hành ngân sách đảm bảo đúng quy định, chặt chẽ và tiết kiệm. Ước tổng thu ngân sách trên địa bàn 6 tháng đầu năm tăng 3,09% so cùng kỳ, đạt 51,12% dự toán Trung ương giao, ngân sách tỉnh đã đáp ứng kịp thời các nhiệm vụ chi theo tiến độ dự toán được giao.

Những kết quả đạt được trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, y tế, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường: Về cơ bản ổn định và đạt nhiều kết quả tích cực. Các chính sách an sinh xã hội, chính sách đối với người có công với cách mạng được đảm bảo thực hiện đầy đủ; công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm, ngành y tế chủ động triển khai các giải pháp phòng, chống dịch bệnh, không để phát sinh và lây lan trên diện rộng. Công tác tổ chức kỳ thi tuyển sinh lớp 10 và kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia được chuẩn bị tốt và tổ chức thành công. Hoạt động khoa học công nghệ có nhiều chuyển biến; các nhiệm vụ khoa học công nghệ được đẩy nhanh tiến độ thực hiện, chú trọng ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao giá trị gia tăng theo chuỗi sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan nhà nước được tăng cường, phần mềm VNPT-iOffice tiếp tục triển khai vận hành, khai thác sử dụng khá hiệu quả tại cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh.

Công tác cải cách hành chính: Các giải pháp về cải cách chế độ công vụ, công chức được quan tâm, tổ chức thực hiện đồng bộ; việc sắp xếp, củng cố bộ máy cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp các cấp và cơ cấu lại đội ngũ công chức, viên chức được thực hiện nghiêm túc. Ngoài ra, với những nỗ lực và chỉ đạo quyết liệt trong thực hiện các giải pháp CCHC và tập trung cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nên tỉnh đã được người dân, doanh nghiệp đánh giá rất tốt thể hiện qua các chỉ số PAPI, PCI, SIPAS đều đạt thứ hạng cao. Tuy nhiên, chỉ số PAR INDEX sụt giảm 15 bậc và ở vị trí thứ 62 trên cả nước, UBND tỉnh đã tổ chức Hội nghị để đánh giá kết quả đạt được và rút kinh nghiệm để duy trì và nâng cao các chỉ số. Công tác bầu cử, bầu cử lại Trưởng ấp, khu phố nhiệm kỳ VIII (2018-2020) được thực hiện tốt, kết quả bầu cử đạt 986/986 trưởng ấp, khu phố, đạt tỷ lệ 100%.

Công tác đảm bảo quốc phòng - an ninh; phòng, chống tham nhũng và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân: Tình hình an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội trên địa bàn và tuyến biên giới biển được giữ vững ổn định, không xảy ra tình trạng tụ tập đông người tuần hành, biểu tình, gây rối an ninh trật tự. Lực lượng công an các cấp thường xuyên tăng cường nắm tình hình, quản lý chặt địa bàn, lĩnh vực trọng điểm và tổ chức thực hiện tốt các đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm. Tình hình tệ nạn và tai nạn xã hội giảm so cùng kỳ, đặc biệt là tai nạn giao thông đường bộ giảm 7,32% số vụ, giảm 5,26% số người chết. Tình hình khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân có giảm số vụ việc, nhưng tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp vẫn diễn biến phức tạp.

  Về những khó khăn, hạn chế: Bên cạnh những kết quả khả quan đã đạt được, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh vẫn còn những khó khăn, hạn chế như: Hiện tượng thời tiết cực đoan (mưa trái mùa, nắng nóng) xảy ra, dẫn đến hiệu quả sản xuất một số loại sản phẩm đạt không cao (như muối, rau màu, nghêu và sò huyết bị chết,...); năng lực hoạt động của một số hợp tác xã, tổ hợp tác chưa cải thiện nhiều; phát triển mới HTX rất khó khăn, do một số địa phương và người dân chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng trong phát triển kinh tế hợp tác nên chưa tích cực thực hiện; số doanh nghiệp làm thủ tục giải thể và thông báo tạm ngừng hoạt động khá cao, bằng 48,5% số doanh nghiệp thành lập mới; một số doanh nghiệp, cá nhân khởi nghiệp còn tâm lý ỷ lại, trông chờ sự hỗ trợ; công tác vận động hộ kinh doanh chuyển đổi lên doanh nghiệp chưa đạt mục tiêu, có nhiều hộ kinh doanh cá thể đã chuyển đổi lên doanh nghiệp nhưng xin giải thể do gặp nhiều khó khăn...; Cơ sở vật chất trường lớp được đầu tư, tuy nhiên chưa đáp ứng điều kiện để mở rộng quy mô giáo dục mầm non và tổ chức dạy học 02 buổi/ngày; việc thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch bệnh tại các KCN, trường học, nơi tập trung đông người,... còn khó khăn; tiến độ thực hiện các tiêu chí xây dựng NTM còn chậm, chủ yếu do thiếu nguồn kinh phí; công tác tuyển dụng lao động tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp gặp khó khăn do mức lương và chính sách ưu đãi chưa hấp dẫn; kết quả triển khai Đề án sinh kế ở cơ sở chưa đạt yêu cầu; việc kết nối các nguồn lực hỗ trợ người nghèo phát triển sản xuất và tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản còn hạn chế; hiệu quả triển khai hệ thống một cửa điện tử cung cấp dịch vụ công trực truyến mức độ 3 chưa cao,...

Mặc dù, UBND tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt và các ngành, địa phương triển khai nhiều giải pháp để thực hiện nhưng phạm pháp hình sự tăng so cùng kỳ, nhất là cướp giật tài sản, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy, cố ý làm hư hỏng tài sản, chống người thi hành công vụ, đánh bạc; tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp còn diễn biến phức tạp, mặc dù số lượt giảm nhưng tính chất rất gay gắt, nhiều trường hợp có hành vi quá khích, gây mất ANTT; ngư dân đánh bắt thủy sản xa bờ, xâm phạm vùng biển nước ngoài bị bắt giữ còn xảy ra,...Về nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thực hiện trong 6 tháng cuối năm 2018:

1. Tổ chức rà soát, đánh giá Đề án tái cơ cấu nông nghiệp để có giải pháp thực hiện phù hợp và hiệu quả; đẩy nhanh tiến độ xây dựng, sớm hoàn thành Đề án Mỗi xã một sản phẩm (OCOP); tập trung thực hiện các giải pháp phát triển sản xuất nông nghiệp, thủy sản, kiểm soát chất lượng giống cây trồng, vật nuôi; tăng cường công tác hỗ trợ, tập huấn cho người dân về xây dựng mô hình vườn dừa hữu cơ; thường xuyên tổ chức kiểm tra để kịp thời ngăn chặn tình trạng nuôi thủy sản không theo quy hoạch và tình trạng ngư dân đánh bắt cá bất hợp pháp, không có báo cáo, không được quản lý; tuần tra, kiểm tra ngăn chặn, xử lý kịp thời các vụ vi phạm công tác quản lý và bảo vệ rừng. Chú trọng tổ chức thực hiện đồng bộ các giải pháp xây dựng nông thôn mới để hoàn thành chỉ tiêu về số xã đạt chuẩn, nâng số lượng tiêu chí đạt được của toàn tỉnh, nhất là 04 tiêu chí về giao thông, thu nhập, môi trường và an ninh trật tự.

2. Thực hiện đồng bộ các giải pháp tháo gỡ khó khăn thúc đẩy tăng trưởng ngành công nghiệp, thương mại - dịch vụ. Theo dõi, đôn đốc, hỗ trợ nhà đầu tư đẩy nhanh tiến độ thực hiện, sớm hoàn thành các dự án trong và ngoài khu công nghiệp, cụm công nghiệp, để đi vào hoạt động nhằm gia tăng năng lực sản xuất mới. Tổ chức thực hiện tốt Đề án ứng dụng giải pháp quản lý bán hàng thông minh cho các cửa hàng bán lẻ; phát triển hệ thống cửa hàng cung cấp nông sản thực phẩm an toàn tại các huyện. Tiếp tục tổ chức các hoạt động kết nối, xúc tiến thương mại để giới thiệu, quảng bá và tiêu thụ sản phẩm của địa phương, tạo điều kiện để các doanh nghiệp tiềm năng mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh. Đánh giá, nhân rộng mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ theo chuỗi giá trị, nhất là trái dừa và heo thịt. Nâng cao chất lượng hàng hóa xuất khẩu gắn với Đề án Phát triển công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản, thực phẩm tỉnh Bến Tre hướng đến năm 2020. Thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động lữ hành, kinh doanh dịch vụ du lịch; xây dựng giải pháp và chính sách phát triển các dịch vụ chất lượng cao góp phần phát triển và nâng cao giá trị dịch vụ du lịch; có giải pháp nâng cao chất lượng các lễ, hội gắn với tiềm năng phát triển du lịch của địa phương.

3. Xây dựng Đề án Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhằm cụ thể hóa thực hiện Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh. Thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm phát huy tinh thần Đồng khởi khởi nghiệp; hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp phát triển bền vững. Tăng cường hỗ trợ củng cố, phát triển kinh tế tập thể; đánh giá, nhân rộng mô hình hợp tác xã, tổ hợp tác hoạt động hiệu quả; chỉ đạo triển khai thực hiện Chỉ thị số 12/CT-TTg ngày 22 tháng 5 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục tăng cường công tác triển khai thi hành Luật Hợp tác xã năm 2012; tập huấn, bồi dưỡng để nâng cao năng lực cho cán bộ cơ sở, hội đồng quản trị hợp tác xã về phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã. Thường xuyên theo dõi, đôn đốc, giám sát chặt chẽ tiến độ xây dựng Nhà máy xử lý rác Bến Tre để hoàn thành và đi vào hoạt động cuối năm 2018. Tập trung quản lý và cấp phép khai thác các mỏ cát đúng quy định; kiểm tra, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Tăng cường triển khai thực hiện các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, diễn biến bất thường của thời tiết; thực hiện đồng bộ các giải pháp chống sạt lở bờ sông, bờ biển.

4. Thực hiện tốt các giải pháp huy động vốn đầu tư toàn xã hội; tập trung tháo gỡ vướng mắc về thủ tục đầu tư và giải phóng mặt bằng, đặc biệt là triển khai có hiệu quả Quyết định số 05/2018/QĐ-UBND ngày 21 tháng 02 năm 2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong công tác thu hồi đất; bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trên địa bàn tỉnh Bến Tre để đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án, công trình trọng điểm và giải ngân vốn đầu tư; chấn chỉnh hoạt động tư vấn đầu tư xây dựng cơ bản, xác định rõ trách nhiệm của chủ đầu tư, nhà thầu (tư vấn, xây dựng) về tiến độ và chất lượng hồ sơ dự án, thiết kế, tiến độ thi công và giải ngân vốn đầu tư. Triển khai Đề án xây dựng giao thông nông thôn giai đoạn 2018-2020; thực hiện các bước thông qua Đề án công nhận thành phố Bến Tre đạt chuẩn đô thị loại II và thành lập 3 thị trấn Phước Mỹ Trung, Tiên Thủy, Tiệm Tôm. Xúc tiến lập dự án đầu tư các công trình cấp thiết để bổ sung danh mục dự án sử dụng nguồn vốn dự phòng 10% và các nguồn vốn hỗ trợ khác từ Trung ương.

5. Chuẩn bị chu đáo các điều kiện về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên để khai giảng năm học mới 2018-2019; tổ chức sắp xếp lại hệ thống cơ sở giáo dục mầm non công lập trên địa bàn tỉnh. Tăng cường công tác giám sát và tuyên truyền sâu rộng về phòng, chống bệnh truyền nhiễm gây dịch. Thực hiện tốt Đề án Bệnh viện vệ tinh tim mạch tại Bệnh viện Nguyễn Đình Chiểu giai đoạn 2 (2018-2020); phát triển kỹ thuật mới một số lĩnh vực chẩn đoán và điều trị bệnh; theo dõi, chấn chỉnh thái độ phục vụ của đội ngũ y bác sĩ, nhân viên y tế ở các cơ sở khám chữa bệnh; quan tâm đầu tư trang thiết bị và nâng cao chất lượng hoạt động của các trạm y tế; tăng cường công tác quản lý, kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm.

Tập trung kiểm tra, thẩm định bảo đảm chất lượng các tiêu chí đạt chuẩn xã văn hóa nông thôn mới; quản lý chặt chẽ hoạt động kinh doanh karaoke, biểu diễn nghệ thuật, quảng cáo, sử dụng nhạc sống theo đúng quy định. Tiếp tục thực hiện Đề án Thể dục thể thao giai đoạn 2018-2020; tăng cường kiểm tra thực hiện Đề án phổ cập bơi, phòng chống đuối nước cho trẻ em; quản lý tốt các hồ bơi di động.

Tập trung hỗ trợ Trường Cao đẳng Bến Tre hoạt động ổn định và có kế hoạch đầu tư, sửa chữa cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị đáp ứng yêu cầu giảng dạy và học tập; phối hợp, hỗ trợ Phân hiệu Đại học Quốc gia tổ chức tuyển sinh năm học 2018-2019 và đi vào hoạt động có hiệu quả. Chú trọng nâng cao chất lượng công tác đào tạo nghề, giải quyết nhu cầu thiếu lao động của các khu, cụm công nghiệp; tập trung thực hiện có hiệu quả Đề án đa dạng sinh kế, giảm nghèo bền vững; đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động. Triển khai thực hiện tốt công tác hỗ trợ xây dựng mới và sửa chữa nhà ở cho người có công với cách mạng còn khó khăn về nhà ở. Tập trung đôn đốc tiến độ thực hiện các đề án, dự án khoa học và ứng dụng các đề tài nghiên cứu có hiệu quả vào sản xuất kinh doanh; xúc tiến triển khai mô hình quản lý và phát huy giá trị chỉ dẫn địa lý Bến Tre cho sản phẩm Dừa xiêm xanh và Bưởi da xanh.

6. Thực hiện tốt “Năm dân vận chính quyền”; phát huy kết quả đạt được của chỉ số PCI và PAPI, đồng thời tập trung thực hiện các giải pháp khắc phục những hạn chế của chỉ số PAR Index. Nâng cao trách nhiệm và đạo đức công vụ đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; thực hiện nghiêm kỷ luật, kỷ cương trong thi hành công vụ. Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tổ chức kiểm tra và có chế tài đối với các cơ quan, đơn vị chưa có trách nhiệm cao trong thực hiện cải cách hành chính; kiên trì tuyên truyền, hướng dẫn người dân, doanh nghiệp thực hiện thủ tục hành chính mức độ 3, mức độ 4 và gửi nhận hồ sơ qua bưu điện. Tiến hành rà soát các trường hợp người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn, ấp, khu phố chưa có quyết định công nhận chức danh để giải quyết kịp thời nhằm đảm bảo quyền lợi cho cán bộ.

7. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm việc chấp hành pháp luật về phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí nhất là trên lĩnh vực quản lý đất đai, đấu thầu, đầu tư xây dựng cơ bản; xử lý nghiêm các sai phạm sau thanh tra; thực hiện tốt công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tiếp tục thực hiện tốt công tác tuyên truyền phổ biến chính sách, pháp luật sâu, rộng để nhân dân biết và thực hiện, nhất là chủ trương, chính sách pháp luật về quốc phòng, an ninh; kiểm tra chặt chẽ việc khám sức khỏe thanh niên thực hiện nghĩa vụ quân sự. Đảm bảo an ninh trật tự, tập trung giải quyết các vấn đề về tệ nạn xã hội, triệt xóa các băng, nhóm tội phạm, các tụ điểm tệ nạn xã hội, cũng như các loại tội phạm mới phát sinh; tăng cường đối thoại trực tiếp, giải quyết kịp thời tại cơ sở các vụ khiếu nại, tố cáo của người dân, các vướng mắc, tình huống phát sinh, không để bị động bất ngờ và xảy ra đình công, lãn công, tập trung khiếu kiện đông người. Triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp bảo đảm an toàn giao thông, phòng chống cháy nổ, nâng cao chất lượng diễn tập; khắc phục kịp thời hậu quả thiên tai, tìm kiếm cứu nạn khi xảy ra.

          Buổi tiếp xúc 4 ý kiến phát biểu trên các vực như: giao thông đường tỉnh 885, đoạn từ cầu chẹt sậy đến chợ giữa xuống cấp, không đảm bảo an toàn cho người tham gia giao thông; ánh sáng đèn đường từ cầu chẹt sậy đến công ty tiến phát không đủ sáng; xe quá tải chạy vào đường Mỹ Thạnh-Phong Nẫm; tình hình sạt lỡ bờ sông; cầu Mỹ Thạnh xuống cấp; vệ sinh môi trường; quy định diện tích tối thiểu khi tách thửa gây khó khăn cho người dân; tình hình giá dừa xuống thấp, cần có chính sách trợ giá cho người nông dân; khi làm lộ bê tông, có di dời các trụ điện hạ thế chi phí quá cao; tình nhạc sóng gây bức xúc cho người dân; cần bố bác sĩ cho trạm y tế xã để đảm bảo khám chữa bệnh cho người dân; cơ sở vật chất trường mầm non không đủ giữ trẻ; việc thi trung học phổ thông đề nghị giao cho tỉnh tổ chức…Các ý kiến của cử tri được các ngành huyện và đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh giải trình thỏa đán./.

 

 

Tin khác